top-banner-2

Thứ tư, 13/04/2016, 09:24 GMT+7

Google và Internet đang khiến chúng ta 'ngu' đi?

Tác động từ Internet và thời đại số lên cuộc sống của chúng ta là điều mà nhiều nhà nghiên cứu, học giả đã bàn tới từ lâu. Tuy nhiên tác giả Nicholas Carr vẫn mang tới một góc nhìn độc đáo của riêng ông, trong bài viết đăng trên tờ Atlantic. Chúng tôi xin được giới thiệu với độc giả về bài viết này.

 

Hoạt động đọc đã khác đi rất nhiều từ thời đại Internet bùng nổ. (Ảnh: Entrepreneur)

"Dave, dừng lại. Dừng lại, có dừng không thì bảo? Dừng lại, Dave. Có dừng không, Dave?” Đây là cảnh siêu máy tính HAL van vỉ với phi hành gia Dave Bowman trong một cảnh ở cuối bộ phim 2001: A Space Odyssey của đạo diễn Stanley Kubrick.

Bowman đã bị cỗ máy siêu thông minh nhưng bị hỏng này đẩy tới chỗ sắp chết trong không gian. Đó là lúc anh từ từ rút ra một mạch ghi nhớ, chịu trách nhiệm kiểm soát bộ não nhân tạo của cỗ máy. “Dave, đầu tôi đang điên lên đây,” HAL nói trong những phút cuối. “Tôi có thể cảm thấy điều này. Tôi thấy rõ lắm”.

Tôi cũng có cảm nhận tương tự như cỗ  máy. Trong vài năm qua, tôi đã có cảm giác rất không thoải mái, rằng ai đó hay thứ gì đó đang chơi đùa với não bộ của tôi, lập lại bản đồ mạng thần kinh, tái lập trình bộ nhớ. Trí óc của tôi không còn tiến lên nữa và nó đang thay đổi.

Tôi không còn suy nghĩ như trước đây nữa. Tôi có thể cảm nhận điều này mạnh mẽ nhất khi đọc thứ gì đó. Đắm chìm bản thân tôi vào một cuốn sách hoặc một bài báo dài thường là điều rất dễ thực hiện. Tâm trí của tôi sẽ để ý hoàn toàn tới câu chuyện hoặc các nút thắt nào đó. Tôi thường dành nhiều giờ để đọc qua các áng văn dài.

Nhưng nay điều này không còn nữa. Sự tập trung của tôi thường tan biến ngay sau khi đọc xong chừng 2 hoặc 3 trang. Tôi bắt đầu mất dấu mạch truyện và mong muốn tìm điều gì đó khác để làm. Thói quen đọc sâu, vốn diễn ra một cách tự nhiên, nay trở thành điều rất khó khăn.

Giờ tôi nghĩ rằng mình biết chuyện gì đã xảy ra. Trong hơn một thập kỷ qua, tôi đã dành quá nhiều thời gian ở trên mạng, tìm kiếm và lướt web, đôi khi còn thêm thắt thông tin vào kho dữ liệu khổng lồ của mạng Internet.

Tiếp cận thông tin qua Internet khiến việc đọc sách trở nên khó khăn hơn. (Ảnh: Huffington Post)

Mạng máy tính toàn cầu mang tới cho những kẻ hành nghề viết lách như tôi một món quà quý giá. Hoạt động nghiên cứu thường mất nhiều ngày mệt mỏi trong các căn phòng thư viện nay đã có thể được thực hiện xong chỉ sau có vài phút. Vài lệnh tìm kiếm trên trang Google, vài cú nhấp chuột vào các đường siêu liên kết (hyperlink) và tôi đã có được các thông tin, đoạn trích phát biểu mà mình cần. 

Ngay cả khi không làm việc, tôi vẫn thích lang thang trên mạng để thu thập thông tin, đọc và viết thư điện tử, quét qua các tít báo, các bài viết trên blog, xem các đoạn video, nghe các đoạn podcast hay chỉ đơn giản là nhấp vào các hyperlink.

Với tôi, cũng như nhiều người khác, mạng Internet đã trở thành một môi trường toàn diện, một ống dẫn phần lớn thông tin chảy qua mắt, qua tai vào trong tâm trí. Có rất nhiều lợi ích từ việc lập tức tiếp cận được với kho thông tin vô cùng dày dặn đó.

Những lợi ích đó đã được nhiều người mô tả và cất lời khen. Phóng viên Clive Thompson của trang Wired thậm chí ca ngợi rằng khả năng lưu trữ thông tin trên Internet mang đến lợi ích cho sự tư duy của con người.

Nhưng lợi ích ấy có cái giá của nó. Như nhà lý thuyết truyền thông Marshall McLuhan chỉ ra trong những năm 1960, truyền thông không phải là các kênh thông tin thụ động. Chúng cung cấp các nguyên liệu phục vụ hoạt động tư duy, nhưng đồng thời cũng định hình tiến trình tư duy.

Và điều mà Internet đã tác động tới tôi là bào mòn dần khả năng tập trung, suy nghĩ sâu sắc về một điều gì đó. Tâm trí tôi giờ mong muốn đón nhận thông tin theo cách thức Internet phân phối: một dòng chảy tốc độ cao.

"Tâm trí tôi giờ mong muốn đón nhận thông tin theo cách thức Internet phân phối: một dòng chảy tốc độ cao". (Ảnh: Verbicide Magazine)

Trước kia, tôi là một người thợ lặn trong thế giới của ngôn từ. Nay, tôi chỉ quen lao nhanh trên bề mặt, như một anh chàng lướt sóng chuyên nghiệp vậy.

Tôi không phải người duy nhất lâm vào tình trạng này. Khi tôi nêu vấn đề với một số người bạn và đồng nghiệp, những con người cũng làm các công việc liên quan tới chữ nghĩa như mình, rất nhiều chia sẻ rằng họ có những trải nghiệm tương tự.

Càng sử dụng Internet nhiều, họ càng gặp khó khăn trong việc tập trung để viết dài. Một số blogger mà thôi theo dõi cũng bắt đầu bàn về hiện tượng này. Scott Karp, người viết một blog về truyền thông trực tuyến, gần đây thừa nhận rằng anh đã ngừng đọc sách hoàn toàn.

“Tôi học đại học chuyên ngành văn chương và từng đọc sách rất khỏe”, anh viết. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Rồi anh tự phỏng đoán đáp án, cho rằng nguyên nhân do lối tư duy của mình đã thay đổi, hình thành từ việc lên mạng quá nhiều.

Bruce Friedman, người viết blog thường xuyên về việc dùng máy tính trong y học, cũng mô tả cách thức Internet thay đổi lối suy nghĩ của mình. “Tôi giờ gần như mất hoàn toàn khả năng đọc và cảm thụ một bài báo dài trên web hoặc trên báo giấy”, anh thừa nhận hồi đầu năm nay.

Là một nhà nghiên cứu bệnh học có thời gian dài giảng dạy tại Đại học y Michigan, Friedman cho rằng tư duy của mình đã thay đổi theo hướng “thu ngắn lại và đứt đoạn”, phản ánh cách anh thường cóp nhặt các đoạn văn bản ngắn từ nhiều nguồn trên mạng.

Lối đọc qua Internet khiến tư duy con người thu ngắn lại. (Ảnh: Small Biz Trend)

“Giờ tôi không thể đọc Chiến tranh và Hòa bình nữa”, anh nói. “Tôi đã mất khả năng làm điều đó. Ngay cả một bài viết trên blog dài hơn 3 hoặc 4 khổ cũng rất khó để cảm  thụ. Tôi thường chỉ đọc lướt qua”.

Một nghiên cứu gần đây về thói quen hoạt động trên mạng, do các học giả từ Đại học College London thực hiện, cho thấy chúng ta đang ở giữa quá trình thay đổi cách thức đọc và tư duy. Trong chương trình nghiên cứu dài 5 năm này, các nhà khoa học đã thu thập và phân tích thông tin về hoạt động đọc trên những chiếc máy tính đặt tại Thư viện Anh và một địa điểm nữa.

Họ thấy rằng độc giả có xu hướng thể hiện hành động “đọc lướt”. Họ xem hết nội dung này tới nội dung khác và hiếm khi trở lại các nội dung đã xem qua. Họ thường chỉ đọc chừng một hoặc hai trang báo hoặc sách rồi chuyển qua bài báo/cuốn sách mới. Đôi khi họ sẽ lưu lại các bài viết dài, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy họ sẽ trở lại và đọc nốt các bài dài ấy.

Các tác giả nghiên cứu báo cáo: “Rõ ràng là độc giả không đọc nội dung trên mạng theo cách truyền thống. Thực vậy, có những dấu hiệu cho thấy một dạng “đọc” mới đang xuất hiện, tại đó người dùng lướt qua các tựa đề, các trang mục lục, các bản tóm tắt để nhanh chóng có được nội dung cơ bản. Có vẻ như họ đọc trên mạng chỉ để tránh khỏi phải đọc theo phương thức truyền thống”.

Nhờ sự phổ biến của các loại văn bản trên Internet, đó là chưa kể tới các dịch vụ nhắn tin trên điện thoại, ngày hôm nay chúng ta có thể đã đọc nhiều hơn so với những người sống trong giai đoạn 1970 - 1980, khi truyền hình là loại hình truyền thông được nhiều người ưa chuộng. Nhưng hình thức đọc của ngày hôm nay rất khác và ẩn dưới nó là một lối tư duy hoàn toàn khác biệt.

Hình thức đọc của ngày hôm nay rất khác và ẩn dưới nó là một lối tư duy hoàn toàn khác biệt. (Ảnh: CBC)

Lối đọc cùng tư duy mới này đã khiến một số nhà khoa học lo ngại. Maryanne Wolf, một nhà tâm lý ở Đại học Tufts cho biết lối đọc mới do Internet tạo ra và cổ súy, vốn đặt “hiệu quả” và “tức thời” thành các yếu tố được ưu tiên cao hơn tất thảy, có thể làm suy yếu khả năng đọc sâu của con người. Chính khả năng đọc sâu, hình thành vào giai đoạn sơ khai của công nghệ, dưới thời báo in còn thống trị, đã giúp sinh ra các áng văn dài và phức tạp.

Bà Wolf nói rằng khi đọc nhiều trên mạng Internet, chúng ta có xu hướng trở thành “những người giải mã thông tin” đơn giản. Chúng ta mất đi khả năng cảm thụ nội dung trong văn bản, khả năng hình thành các kết nối tư tưởng sâu sắc như khi đọc sâu và không bị phân tán sự chú ý.

Wolf cũng giải thích rằng đọc không phải là một kỹ năng mang tính bản năng của con người. Hoạt động này không được khắc vào bộ gene của chúng ta giống như tiếng nói. Chúng ta phải dạy cho trí óc của mình cách phiên dịch các biểu tượng, con chữ thành thứ ngôn ngữ mà mình có thể hiểu.

Và truyền thông hay các công nghệ mà chúng ta dùng trong hoạt động học đọc, thực hành đọc đóng một vai trò rất quan trọng trong việc định hình các mạng thần kinh trong não bộ chúng ta. Các thí nghiệm đã thấy rằng độc giả đọc chữ tượng hình, như tiếng Hoa, có mạng thần kinh rất khác so với những người dùng bảng chữ cái alphabet.

Sự khác biệt nằm tại nhiều khu vực của não, gồm khu vực nhận thức, khu vực ghi nhớ, giải mã hình ảnh và âm thanh... Vì thế, có khả năng những người với tư duy đọc chịu ảnh hưởng từ Internet cũng sẽ có mạng thần kinh không giống người hay đọc báo in và sách.

Khoảng năm 1882, Friedrich Nietzsche mua một chiếc máy đánh chữ, hiệu Malling-Hansen. Thị lực của ông đang giảm sút và việc phải nhìn tập trung lâu vào một trang giấy trở thành trải nghiệm mệt mỏi, đau đớn, thường mang tới những cơn đau đầu tồi tệ. Chiếc máy đánh chữ đã giải cứu ông, ít nhất là tạm thời.

Friedrich Nietzsche. (Ảnh: Wikimedia)

Sau khi làm chủ nghệ thuật gõ phím mà không cần nhìn, ông đã có thể vừa nhắm mắt vừa sáng tác. Chữ nghĩa cứ thế tuôn chảy từ tâm trí ông lên các trang giấy. Nhưng cỗ máy cũng có những tác động lên công việc của ông. Một người bạn của Nietzsche, một nhạc sĩ, thấy rằng lối viết của ông thay đổi, với câu cú chặt chẽ hơn, giống một bức điện tín hơn.

Trong một lá thư gửi Nietzsche, người bạn nhận xét rằng chiếc máy có thể đã gây ảnh hưởng, khiến tư duy của ông thay đổi khác với khi đang cầm giấy bút để sáng tác. Trong thư trả lời bạn, Nietzsche cũng thừa nhận điều này, nói rằng “thiết bị trợ giúp sáng tác tham gia vào quá trình hình thành tư duy của ông”.

Bộ não người gần như thay đổi không ngừng. Người ta thường nghĩ rằng mạng thần kinh của họ, một hệ thống liên kết dày đặc gồm khoảng 100 tỷ neuron thần kinh bên trong hộp sọ, đã ổn định vào thời gian chúng ta tới tuổi trưởng thành.

Nhưng các nhà nghiên cứu não thấy rằng suy nghĩ này không đúng. James Olds, một giáo sư về khoa học thần kinh tại Viện nghiên cứu tiên tiến Krasnow ở Đại học George Mason cho biết các tế bào thần kinh thường phá vỡ các liên kết cũ và hình thành những liên kết mới. Olds nói rằng bộ não người có khả năng tái lập trình liên tục và luôn thay đổi cách thức hoạt động của nó.

Và khi chúng ta dần quen với cái mà nhà xã hội học Daniel Bell gọi là “các công nghệ trí tuệ” - những công cụ mở rộng khả năng trí óc của chúng ta thay vì khả năng thể chất - chúng ta cũng sẽ bắt đầu dựa dẫm vào chúng.

Đồng hồ cơ, thứ đi vào sử dụng nhiều trong thế kỷ 14, là một ví dụ minh họa kinh điển. Sử gia Lewis Mumford nói rằng chiếc đồng hồ đã “tách thời gian khỏi các hoạt động của con người và giúp tạo ra niềm tin vào một thế giới gồm các sự kiện mà người ta có thể tính toán trước được”.

Công nghệ tước đi nhiều thứ của con người. (Ảnh: The Technological Citizen)

Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ giúp mang tới cho thế giới các bộ não khoa học, những con người khoa học. Nhưng nó cũng tước đi nhiều thứ.

Như nhà khoa học máy tính quá cố Joseph Weizenbaum từng quan sát trong cuốn sách Computer Power and Human Reason: From Judgment to Calculation (tạm dịch Sức mạnh máy tính và lý lẽ con người: Từ sự suy xét tới sự tính toán), ý tưởng thế giới mới xuất hiện từ việc sử dụng phổ biến công cụ tính toán thời gian “thực ra chỉ là một phiên bản nghèo nàn hơn của thế giới cũ. Bởi, thế giới này hình thành dựa trên cơ sở chối bỏ những trải nghiệm trực tiếp đã tạo ra nền móng và giúp hình thành thực tế cũ”.

Nói một cách khác thì khi quyết định dùng đồng hồ để xác định xem khi nào nên ăn uống, làm việc, tỉnh giấc, chúng ta đã ngừng nghe theo nhu cầu của cơ thể và bắt đầu tuân lệnh chiếc đồng hồ. Tiến trình thích nghi với công nghệ trí tuệ mới cũng phản ánh sự thay đổi của các hình mẫu mà chúng ta thường dùng để giải thích về chính mình, với bản thân mình.

Ví dụ, khi chiếc đồng hồ cơ xuất hiện, người ta bắt đầu nghĩ rằng bộ não của họ hoạt động “như máy đồng hồ”. Ngày hôm nay, trong thời đại của các phần mềm thông minh thống trị, chúng ta lại nghĩ về não bộ như “những cỗ máy tính”. Nhưng các nhà khoa học thần kinh nói rằng sự thay đổi diễn ra sâu sắc hơn các hình ảnh mang tính đại diện đó. Nhờ sự dễ uốn của não bộ, sự thay đổi của chúng ta còn diễn ra trên cấp độ sinh học.

Internet hứa hẹn sẽ có các tác động rất sâu sắc lên khả năng nhận thức của chúng ta. Trong một bài báo xuất bản vào năm 1936, nhà toán học lừng danh người Anh Alan Turing từng chứng minh rằng một chiếc máy tính kỹ thuật số, khi ấy mới chỉ tồn tại trên mặt lý thuyết, sẽ có thể được lập trình để thực hiện chức năng của bất kỳ thiết bị xử lý thông tin nào khác.

Máy tính đang dần thay thế nhiều sản phẩm và công nghệ trí tuệ khác. (Ảnh: Hongkiat)

Và đó chính xác là điều chúng ta đang chứng kiến trong ngày hôm nay. Internet, một hệ thống máy tính với sức mạnh không thể đo đếm được, đang thay thế dần phần lớn các công nghệ trí tuệ khác của chúng ta. Nó trở thành bản đồ và đồng hồ, thành báo in và máy đánh chữ, thành máy tính và điện thoại, thành TV và máy thu thanh của chúng ta.

Khi Internet hấp thụ một phương tiện (truyền thông) nào đó, phương tiện ấy sẽ được tái tạo trong hình ảnh của mạng máy tính khổng lồ. Nó sẽ bơm vào nội dung của phương tiện ấy đầy những đường hyperlink, các quảng cáo nhấp nháy và đủ thứ khác.

Nó cũng để nội dung trong phương tiện ấy bị vây quanh bởi nội dung của các dạng truyền thông khác đã bị hấp thụ. Ví dụ như một một lá thư điện tử có thể sẽ thông báo sự xuất hiện của nó khi chúng ta đang mải lướt qua các tiêu đề trên một tờ báo điện tử. Kết quả là sự tập trung của chúng ta hoàn toàn bị phân tán.

Ảnh hưởng của Internet không chỉ dừng lại ở các góc màn hình. Khi tâm trí con người bắt đầu bị xoay chuyển theo dòng xoáy điên cuồng của truyền thông Internet, truyền thông tuân theo truyền thống trước đây cũng phải thay đổi để thích nghi với sự kỳ vọng mới của độc giả.

Các chương trình truyền hình bắt đầu thêm vào những dòng chữ chạy trên nền, các quảng cáo nhỏ nảy lên ở góc màn hình. Các tạp chí và báo in thu ngắn dung lượng bài viết, đưa vào các phần sapô kiểu con nhộng, cắt thông tin thành các phần nhỏ để độc giả dễ dàng lướt qua.

Tháng 3/2008, tờ New York Times - khi ấy còn ra báo giấy - quyết định dành trang 2 và 3 của tờ nhật báo để đăng toàn bộ nội dung tóm tắt của cả số báo, dĩ nhiên đã chia ra làm nhiều mục nhỏ.

Báo chí cũng phải thay đổi để thích nghi với lối đọc trên Internet. (Ảnh: Answer Africa)

Giám đốc thiết kế Tom Bodkin của tờ báo giải thích rằng các “lối tắt” nằm ở trang ba sẽ giúp độc giả nhanh chóng thưởng thức tin tức trong ngày, giúp họ giảm bớt các phương thức đọc báo “kém hiệu quả” khi phải giở toàn bộ các trang báo để tìm bài hay. Có thể thấy báo chí truyền thống có ít sự lựa chọn ngoài việc phải chơi theo luật của loại hình truyền thông mới.

Chưa bao giờ một hệ thống liên lạc lại đóng quá nhiều vai trò như vậy trong cuộc sống của chúng ta, hoặc gây ảnh hưởng lớn tới thế trong suy nghĩ của chúng ta, như Internet đã làm vào ngày hôm nay. Tuy nhiên sau tất cả những gì người ta viết về Internet, vấn đề đạo đức tri thức của mạng máy tính này vẫn chưa được khám phá.

Vào thời điểm Nietzsche bắt đầu dùng máy đánh chữ, một chàng thanh niên trẻ có tên Frederick Winslow Taylor đã mang theo đồng hồ bấm giờ vào nhà máy thép Midvale ở Philadelphia và bắt đầu một loạt thử nghiệm nhằm cải thiện hiệu quả lao động của các thợ máy ở nơi này.

Được sự đồng ý của các chủ sở hữu Midvale, ông tuyển dụng một nhóm các lao động tại nhà máy, yêu cầu họ làm việc trên vài hệ thống máy xử lý thép và ghi lại chi tiết thời gian họ thực hiện mọi hoạt động trên các cỗ máy.

Thông qua việc phân chia từng công việc thành các bước nhỏ, riêng biệt và thử nghiệm các cách thức làm việc, Taylor đã tạo ra một bộ hướng dẫn chuẩn xác - một thuật toán như chúng ta có thể gọi trong ngày hôm nay - về việc mỗi người công nhân phải làm việc ra sao.

Các lao động của Midvale dĩ nhiên rất phẫn nộ với quy định làm việc mới, nói rằng nó biến họ thành các cỗ máy tự động vô hồn, với những thao tác lặp đi lặp lại. Nhưng sản lượng của nhà máy tăng lên chóng mặt.

(Ảnh: Betanews)

Hơn 100 năm sau khi phát minh ra động cơ hơi nước, cuộc Cách mạng công nghiệp cuối cùng đã  tìm thấy triết lý và triết gia của nó. Sự đồng bộ chặt chẽ mang tính công nghiệp cao của Taylor và “hệ thống” mà ông tạo ra đã được nhiều nhà sản xuất trên thế giới đón nhận.

Mong muốn đạt được tốc độ, hiệu quả và sản lượng tối đa, các chủ nhà máy đã dùng những nghiên cứu về thời gian và chuyển động để sắp xếp và định hình công việc cho người lao động.

Mục tiêu, như Taylor nêu ra trong Thuyết quản lý theo khoa học của ông, là nhận diện và áp dụng một phương thức làm việc tốt nhất cho mọi công việc. Taylor nói với những người ủng hộ rằng một khi hệ thống của ông được áp dụng vào mọi hoạt động lao động bình thường, nó sẽ giúp tái tổ chức không chỉ nền công nghiệp mà cả xã hội, tạo ra một xã hội hiệu quả hoàn hảo. “Trước đây con người được ưu tiên hàng đầu”, ông tuyên bố. “Trong tương lai thì hệ thống sẽ được ưu tiên số một”.

Hệ thống đó của Taylor vẫn ở lại với chúng ta trong ngày hôm nay. Nó vẫn đóng vai trò nền tảng đạo đức của hoạt động sản xuất công nghiệp. Và nay, nhờ sức ảnh hưởng ngày càng tăng của các kỹ sư máy tính và các nhà lập trình phần mềm đã phủ bóng lên đời sống tri thức của chúng ta, các nguyên tắc đạo đức của Taylor đã bắt đầu quản lý cả vương quốc tư tưởng nữa.

Internet là một cỗ máy được thiết kế để trở nên hiệu quả, để thành một hệ thống tự động thu gom, chuyển tải và thao túng thông tin. Và đạo quân đông đảo các nhà lập trình của Internet vẫn đang cố tìm ra “một phương thức tốt nhất” - một thuật toán hoàn hảo - để thực hiện mọi hoạt động tinh thần của cái mà chúng ta đã gọi bằng từ “công việc tri thức”.

Lối tư duy của con người đang thay đổi nhờ Internet. (Ảnh: Slate)

Trụ sở của Google ở Mountain View, California— tổ hợp Googleplex— giống như nhà thờ tối cao của Internet và thứ tôn giáo hiện diện ở nơi đây mang tên Chủ nghĩa Taylor. Google, theo lời Giám đốc điều hành Eric Schmidt, là một “công ty thành lập dựa trên các đo đếm khoa học” và đang nỗ lực “hệ thống hóa mọi thứ” mà nó động tới.

Dựa vào hàng terabyte dữ liệu hành vi thu thập qua công cụ tìm kiếm Google và các trang khác, công ty đã thực hiện hàng ngàn thí nghiệm mỗi ngày, theo tờ Harvard Business Review.

Công ty cũng dùng kết quả thu được để tinh chỉnh các thuật toán, sẽ ngày càng kiểm soát chặt cách thức người tìm kiếm thông tin và thu lấy ý nghĩa từ đó. Có thể nói những gì Taylor đã làm để thay đổi đôi bàn tay con người thì Google cũng đang làm điều tương tự, để thay đổi trí óc họ.

Công ty đã  tuyên bố nhiệm vụ của mình là “tổ chức thông tin của thế giới, giúp thông tin trở nên hữu ích và phổ biến để ai cũng có thể tiếp cận được”. Công ty muốn chế ra “bộ máy tìm kiếm hoàn hảo”, thứ hiểu rõ điều người dùng muốn và mang lại thứ họ cần.

Trong quan điểm của Google, thông tin giống như một dạng hàng hóa, một nguồn tài nguyên có thể khai thác và xử lý với sự hiệu quả ở tầm công nghiệp. Chúng ta càng tiếp cận được nhiều thông tin thì càng khai thác nhanh thông tin và cho ra nhiều sản phẩm hơn trong vai trò những nhà tư duy.

Vậy khi nào chuyện này mới kết thúc? Sergey Brin và Larry Page, hai người đàn ông trẻ tuổi tài năng đã thành lập Google khi đang lấy bằng tiến sĩ ngành khoa học máy tính ở Stanford, thường nói về khao khát của họ trong việc biến chương trình tìm kiếm này thành một trí tuệ nhân tạo, một cỗ máy như HAL, có thể kết nối trực tiếp với não bộ của chúng ta.

Máy tính HAL trong bộ phim 2001: A Space Odyssey. (Ảnh: Wikia)

“Bộ máy tìm kiếm cuối cùng phải là thứ thông minh như con người, hoặc thông minh hơn,” Page từng nói. “Với chúng tôi, nghiên cứu về tìm kiếm là một hướng để nghiên cứu về trí thông minh nhân tạo”.

Trong một bài phỏng vấn hồi năm 2004 với tờ Newsweek, Brin nói: “Hiển nhiên khi bạn có tất cả thông tin của thế giới kết nối với não bộ của mình, hoặc sở hữu một bộ não nhân tạo thông minh hơn cả não người thì bạn càng được lợi”. Năm 2007, Page nói trước một hội thảo của các nhà khoa học rằng Google “thực sự đang cố chế tạo trí thông minh nhân tạo và làm điều này trên quy mô lớn”.

Các tham vọng như vậy là điều tự nhiên, thậm chí rất đáng ca ngợi, của hai nhà toán học tài năng nắm trong tay rất nhiều tiền và một đội ngũ các nhà khoa học máy tính hùng hậu làm việc dưới trướng. Là một doanh nghiệp đặt trên nền tảng khoa học, Google được thúc đẩy bởi khao khát sử dụng công nghệ, theo lời Eric Schmidt là để “giải quyết các vấn đề chưa từng được xử lý trước đây” và rõ ràng trí thông minh nhân tạo là vấn đề lớn nhất trong số đó. Chẳng có lý do gì để Brin và Page không muốn trở thành các cá nhân đầu tiên xử lý được thách thức lớn này.

Tuy nhiên, giả định mà họ đưa ra rằng tất cả chúng ta đều sẽ được lợi nếu sức mạnh não bộ của ta được sự hỗ trợ từ bên ngoài, hoặc thậm chí là thay thế hoàn toàn bởi một trí thông minh nhân tạo, là điều gây lo lắng. Nó cho thấy một niềm tin rằng trí thông minh cũng chỉ là sản phẩm của một tiến trình máy móc bình thường, là những bước đi có thể tách bạch, đo đếm và tinh chỉnh hóa.

Trong thế giới của Google, thế giới ta đi vào mỗi khi kết nối Internet, có ít chỗ dành cho khái niệm dự định. Sự mơ hồ không phải là khởi đầu cho hoạt động thấu hiểu điều gì đó mà là một lỗi cần phải sửa chữa. Bộ não người chỉ còn là một cỗ máy tính lạc hậu, cần được lắp chíp xử lý nhanh hơn, ổ cứng lớn hơn.

(Ảnh: Kids anh Teens Online)

Ý tưởng cho rằng trí óc chúng ta nên hoạt động như các cỗ máy xử lý dữ liệu cao tốc không chỉ tích hợp vào trong hoạt động vận hành Internet mà còn là mô hình kinh doanh đang ngự trị mạng máy tính này. Chúng ta càng lướt web nhanh - đồng nghĩa với việc càng nhấp chuột vào nhiều đường liên kết và các trang web - Google và các công ty khác càng dễ thu thập thông tin về ta và quẳng lại cho chúng ta vô khối quảng cáo.

Nói một cách khác, họ thu lợi tài chính từ kho dữ liệu chúng ta để lại khi di chuyển qua các đường liên kết. Và dĩ nhiên điều cuối cùng mà các công ty này mong muốn là chúng ta thong dong đọc và nghiền ngẫm một cách sâu sắc về thứ gì đó. Chính lợi ích kinh tế thiết thân đã khiến họ phải tìm cách làm giảm khả năng tập trung của chúng ta.

Có lẽ tôi đã hơi quá bi quan. Nhưng cũng giống như việc luôn tồn tại một xu hướng tôn vinh các tiến bộ về mặt công nghệ, có một xu hướng khác đi theo chiều ngược lại, lo lắng về điều tồi tệ nhất mà công cụ hoặc các cỗ máy mới có thể mang tới.

Trong cuốn Phaedrus của Plato, triết gia Socrates đã bày tỏ nỗi lo trước sự phát triển của hoạt động viết chữ. Ông sợ rằng khi con người dựa quá nhiều vào chữ viết, như một sự thay thế cho vốn kiến thức thường mang theo trong đầu, họ sẽ lười vận động trí óc và trở thành người dễ quên.

Và bởi thu nạp lượng lớn thông tin trong khi không có được sự hướng dẫn tử tế, họ sẽ tưởng mình là người hiểu biết dù thực tế lại là kẻ ngu dốt. Tư tưởng của họ sẽ đầy sự tự cao tự đại, thay vì khôn ngoan thực thụ.

Socrates đã không sai - công nghệ mới quả có hay mang tới những tác động mà ông lo sợ - nhưng ông lại có cái nhìn thiển cận về điều này. Ông đã không thể thấy trước tác động vô cùng tích cực mà hoạt động viết và đọc mang lại sau này, đã giúp lan tỏa thông tin, nảy sinh tư tưởng mới và mở rộng mạnh mẽ sự hiểu biết (và khôn ngoan) của con người.

"Bbởi thu nạp lượng lớn thông tin trong khi không có được sự hướng dẫn tử tế, họ sẽ tưởng mình là người hiểu biết dù thực tế lại là kẻ ngu dốt" - Socrates. (Ảnh: Digital Journal)

Sự xuất hiện của máy in Gutenberg trong thế kỷ 15 cũng gây ra tranh cãi tương tự. Nhà nghiên cứu khoa học nhân văn người Italy Hieronimo Squarciafico lo rằng sự phổ biến của các cuốn sách sẽ dẫn tới sự lười biếng về mặt tư duy, khiến người ta ít nghiên cứu hơn và làm suy yếu bộ não của họ.

Số khác lại cho rằng các cuốn sách in với giá rẻ sẽ làm giảm sức mạnh thần quyền, làm giảm giá trị công việc của các học giả cùng những người sao chép văn bản, giúp phát tán các tư tưởng trụy lạc và nổi loạn. Như giáo sư Clay Shirky ở Đại học New York nhận xét, phần lớn các chỉ trích nhằm vào máy in đều đúng, thậm chí vô cùng chính xác. Nhưng một lần nữa, những người đó đều không thể thấy được các lợi ích thần kỳ mà hoạt động in ấn mang lại.

Và vì thế, bạn hoàn toàn có quyền nghi ngờ những quan điểm mang màu sắc ngờ vực của tôi trong bài viết này. Có lẽ những người không chấp nhận các chỉ trích nhằm vào Internet sẽ đúng và từ các bộ não siêu năng động, chứa đầy dữ liệu đó sẽ sản sinh ra một thế hệ vàng của hoạt động khám phá trí tuệ, tạo ra kho tri thức mà ai cũng có thể tiếp cận.

Nhưng một lần nữa, cần phải nói rằng Internet không phải bảng chữ cái alphabet. Dù nó có thể thay thế các sản phẩm in ấn, nó lại cho ra đời một thứ khác biệt hoàn toàn. Hình thức đọc sâu mà các trang giấy in cổ súy, có ý nghĩa không chỉ bởi kiến thức chúng ta thu được từ câu chữ của tác giả, mà còn từ những rung cảm mà các con chữ tác động tới tâm trí chúng ta.

Trong những không gian tĩnh lặng, được tạo bởi ra bởi hoạt động đọc say sưa một cuốn sách, chúng ta đưa ra các liên hệ, rút ra kết luận và thực hiện so sánh, rồi từ đó củng cố tư tưởng của mình. Như Maryanne Wolf từng nói, đọc sâu luôn gắn liền với tư suy sâu sắc.

Đọc sâu gắn liền với tư duy sâu sắc. (Ảnh: LumiInsight)

Nếu chúng ta đánh mất những không gian tĩnh lặng đó, hoặc đổ đầy chúng bằng “các nội dung” của Internet, chúng ta sẽ thay thế một điều quan trọng, không chỉ trong bản thân mà còn cả với văn hóa của mình.

Trong một bài luận gần đây, nhà biên kịch Richard Foreman đã viết về điều có thể mất đi là bản sắc con người và nền văn hóa. Trong trường hợp của ông là con người và nền văn hóa phương Tây. Foreman kết luận: “Chúng ta có nguy cơ trở thành những “con người bánh kếp” - trở nên rộng hơn nhưng mỏng hơn về bản sắc - khi kết nối với một mạng lưới thông tin khổng lồ chỉ nhờ một cái bấm chuột”.

Tôi bị ám ảnh bởi khung cảnh trong bộ phim 2001: A Space Odyssey. Điều khiến bộ phim trở nên hết sức sâu sắc, và cũng rất kỳ lạ, là phản hồi đầy cảm xúc của bộ máy, khi trí não của nó đang bị phá bỏ dần dần: nó trở nên tuyệt vọng lúc các mạch điện tử bị tắt dần, van xin như trẻ con với phi hành gia Dave Bowman - “Tôi có thể cảm thấy điều này. Tôi thấy rõ lắm. Tôi sợ” - và cuối cùng là khi bộ máy trở lại trạng thái “ngây thơ của thuở ban đầu”.

Sự tuôn trào cảm xúc của HAL trái ngược với sự vô cảm mà các nhân vật con người trong phim thể hiện, những người thực hiện công việc của họ với sự hiệu quả của một cỗ máy. Suy nghĩ và hành động của họ giống như đã được lên kịch bản từ trước, như đang tuân theo các bước trong một thuật toán.

Trong thế giới của bộ phim, con người đã trở nên giống máy móc tới mức nhân vật có chất “người” nhất hóa ra lại là một cỗ máy. Đó chính là bản chất lời tiên đoán mang màu sắc u tối của Kubrick: khi chúng ta dựa ngày càng nhiều vào máy móc, dùng chúng làm trung gian để thấu hiểu thế giới, chính trí tuệ của chúng ta sẽ bị là phẳng, để trở thành một dạng trí tuệ nhân tạo.

Theo depplus.vn

 


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Xem thêm các bài viết cùng chủ đề với bài viết (phía trên):

Google và Internet đang khiến chúng ta 'ngu' đi?

 

hoa-moc-thien-2

miss-charm-2023

metro-sai-gon

dai-lam-moc

hoa-moc-thien

bia-kndn